Bánh đúc có xương
Chương 1
Những đêm hè năm 1972 này nhiệt độ thì nóng như ban ngày, thoang thoảng đâu đây mùi lúa chín hòa chung với mùi khét lẹt của lửa, của bom đạn còn sót lại sau mỗi đợt đánh phá của máy bay Mỹ.
Đào bừng tỉnh dậy, cô vẫn thường như vậy từ rất lâu rồi. Nếu không phải vì tiếng còi báo động máy bay đến thì cũng là vì một giấc mơ. Giấc mơ đó không đã theo cô từ hồi còn ở chiến trường về vùng đất này làm dâu. Bẵng đi bẵng lại cũng được 7 – 8 năm rồi chứ không ít.
Lờ mờ mở mắt nhưng xung quanh Đào chỉ là một màu đen tối, nó giống như cuộc sống của cô, của tất cả người dân làng Lở và cả miền Bắc trong thời kỳ chiến tranh ác liệt này. Những năm này, cay cú vì thua ở chiến trường miền Nam, giặc Mỹ điên cuồng mở các đợt ném bom vào miền Bắc. Có ngày 1 đợt, có ngày vài đợt, cả một đàn máy bay từ biển Đông ù ù thành đám như chuồn chuồn trốn mưa bay qua đầu, thả không biết bao nhiêu bom đạn như trút mưa xuống mọi nơi mà chúng muốn.
Làng Lở ở ngoại thành Hà Nội, nói là Hà Nội nhưng ở đây không khác vùng nông thôn là mấy, người dân cũng chỉ có mỗi một công việc là trồng lúa vào vụ hè, trồng khoai trồng ngô vào vụ đông. Ấy nhưng trồng lúa trồng khoai có được yên đâu, cứ nhát cái lại có bom trút xuống, một mảnh đồng lại thành cái ao, một cái nhà tranh lại thành đống lửa. Nói là người dân cho nó oai vậy thôi chứ làng Lở, làng Cam, làng Xá, làng Thụy, làng Cò, làng Kiên, làng Cửu ở quanh đây toàn là người già, trẻ con và đàn bà. Họa hoằn lắm cũng có đàn ông trung niên nhưng đều là thương binh, người cụt, người què, người mù, người điếc.
Thanh niên khỏe mạnh, kể cả đàn ông hay đàn bà đều đi chiến trường hết rồi. Nghe đài nói, chiến tranh đang ác liệt lắm, đánh nhau liên miên ở trong miền Nam. Miền Bắc là hậu phương, cung cấp cả người, cả gạo, cả đạn cho miền Nam ruột thịt. Thế nên, thanh niên nam nữ cứ đủ tuổi 16, đủ cân nặng là được điều đi bộ đội hết. Nam thì là lính chiến, cầm súng giết giặc. Nữ đi thanh niên xung phong, mở đường, vác đạn, nói chung là các công việc hậu cần tại chiến trường.
Trong đêm, Đào mò mẫm vuốt vuốt lại mái tóc dài đã rối bời rồi quấn tạm thành một vòng ở sau gáy. Rồi cô tự sờ vào người mình, ôi chiếc áo ướt đẫm làm cô có cảm giác như sờ trực tiếp vào da thịt. Thoáng rùng mình một cái bởi bàn tay Đào vừa sờ vào một bên vú, nầng nẫng săn chắc và rất to. To hơn rất nhiều so mấy đứa trong Đội nữ dân quân tự vệ làng Lở mà Đào làm đội trưởng. Đầu vú tê tê như bị ai cấu mặc dù Đào mới chỉ chạm nhẹ lòng bàn tay vào nó. Cũng phải thôi, cô là đàn bà, đàn bà ở cái tuổi ba mươi hừng hực sức sống nhưng lại không được gần gũi chồng. Chồng cô, anh Thắng là Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn tên lửa của Quân đoàn 1, quân đoàn cơ động chiến trường, đã 5 năm rồi anh chưa từng về nhà, chưa từng về thăm cô. Lần gần đây nhất cô gặp anh cũng là lúc cô ở chiến trường, hai người làm đám cưới trong lán chỉ huy dưới sự chứng kiến của tổ chức dưới tán rừng Trường Sơn. Cô xuất ngũ, cầm trong tay giấy kết hôn của đơn vị làm chứng và bức thư viết tay của anh Thắng về quê anh làm dâu.
Đào vội rụt tay lại, cô không dám tiếp tục để tay mình trên vú, bởi đã bao lần như vậy rồi, cứ hễ chạm vào cái gì vào vú là cô lại lên cơn nứng tợn. Cả cơ thể rạo rực hưng phấn khó mà đè nén được. Cô sợ chỉ thêm một chút nữa thôi là mình phải thọc tay xuống bướm xoa xoa một lúc cho bớt ngứa ngáy. Lục tục rời khỏi giường, Đào mò mẫm cái bao diêm Thống Nhất mà cô vẫn thường để ở đầu giường rồi quẹt quẹt, ngọn lửa nhỏ bé lay lắt vì có gió ở cửa sổ lùa vào nhẹ nhẹ. Cô châm lửa vào cái đèn bão rồi đi ra gian nhà ngoài.
Thoáng nhìn thằng Bình cởi trần trùng trục, nằm ngửa trong màn, Đào tiếp tục đi về phía bàn thờ bằng gỗ đơn sơ. Đặt đèn bão lên bàn rồi nhìn vào tấm ảnh đen trắng một người phụ nữ to bằng nửa lòng bàn. Đào lẩm bẩm:
– Chị lại về với em đấy à?
Lẩm bẩm đến đây, một mảnh ký ức lại ùa về trong Đào. Ngày ấy, vừa 17 tuổi, Đào theo tiếng gọi của đất nước vào Thanh niên xung phong, đi chiến trường. Đào được biên chế về tiểu đội Thanh niên Xung phong chuyên tải đạn ra từ vùng an toàn vào chiến trường và chuyển thương binh từ chiến trường ra ngoài. Mà người trong ảnh kia, chị Hồng chính là tiểu đội trưởng. Lúc đó chị Hồng vừa là tiểu đội trưởng vừa là người chị cả trong tiểu đội. Chị Hồng hồi đó đẹp lắm, là người làng Lở này, ngày Đào mới nhập ngũ thì chị đã 23 tuổi, đã có 5 năm ở chiến trường. Chị không phải ai khác mà chính là vợ của anh Thắng, là mẹ của của Cu Bình đang nằm kia.
Đào nhỏ tuổi nhất trong tiểu đội nên được chị Hồng và các chị thương lắm, coi như em út, giao những việc nhẹ nhất và ít nguy hiểm nhất. Thế rồi chị em lăn lộn, chiến đấu, vào sinh ra tử không biết bao nhiêu mà lần. Ngày ấy, tuổi thanh niên nhiệt huyết và không biết sợ chết là gì, sống – chiến đấu chỉ bằng niềm tin, gặp máy bay chỉ nép vào gốc cây rồi mặc kệ tất, “ném bom chắc gì đã trúng – trúng chắc gì đã chết”. Cứ vậy mà bao nhiêu năm chị em sống chết cùng nhau rồi trở nên thân thiết như chị em ruột. Những lúc rảnh rang, chị Hồng vẫn kể cho Đào nghe về quê chị, về chồng chị, về con chị. Rằng chị nhớ chồng lắm, nhớ thằng Bình lúc đó mới 2 tuổi phải ở nhà với ông bà để bố mẹ đi B.
Nhưng rồi, ngày định mệnh ấy đã đến, trong một lần gùi đạn băng rừng vào sâu trong chiến trường, tiểu đội bị một đám máy bay Mỹ thả bom. Chúng thả mù mờ vì chị em đi kín lắm, không có phát nhiệt để chúng phát hiện. Cả tiểu đội nháo nhác tìm chỗ trốn nhưng quyết không bỏ lại đạn trên vai.
Hai chị em Hồng – Đào chạy cùng một chỗ, rồi một quả bom phát nổ cách chỉ vài mét. Lúc Đào tỉnh dậy thì thấy mình bị chị Hồng đè lên người. Đào gọi mãi, gọi mãi nhưng chị không tỉnh, cả lưng chị cháy xém, mùi khét của thịt và mùi áo bố hòa quyện vào nhau. Đào khóc không thành tiếng, bởi cô biết chị Hồng đã lấy thân mình cứu lấy cô. Không có chị Hồng có lẽ người chết là cả 2 chị em.
Thế rồi, lời trăn trối cuối cùng tại lán quân y của chị Hồng là bước ngoặt thay đổi cuộc đời Đào. Chị Hồng nhờ Đào chăm sóc cu Bình ở quê, và nếu được, thay chị làm vợ anh Thắng nếu hòa bình mà anh còn sống.
Mãi đến vài năm sau, Đào quyết định lấy anh Thắng sau vài lần gặp nhau trong chiến trường. Ngày hai người tổ chức đám cưới cũng là ngày mà Đào ra quân, còn anh Thắng thì tiếp tục đi sâu vào trong.
Ấy vậy mà đã 5 năm trôi qua. Cu Bình giờ đã 15 tuổi, còn Đào đã là phụ nữ 30 tuổi rồi đấy.
Nghĩ đến đây thì tiếng còi hú báo động làm Đào giật mình khỏi ký ức. Cô buột miệng chửi:
– Cha bố tụi mày, ngày đánh rồi mà đêm còn đánh nữa sao?
Nói xong cô chạy thật nhanh vào trong buồng ngủ, đeo cây súng trường vào sau lưng, lấy cái đai bằng vải quấn ngang bụng rồi dắt theo 2 băng đạn chạy ra khỏi phòng. Cô là tiểu đội trưởng tiểu đội dân quân tự vệ làng Lở, mỗi lần có còi báo động là cô phải có mặt ở trận địa phòng không một cách nhanh nhất để tiếp đạn cho bộ đội chính quy, để bắt giặc lái nếu nó nhảy dù xuống hoặc để cứu người, dập lửa, lấp hố bom… nói chung là rất nhiều việc.
Vừa chạy ra đến ngoài, cô đã thấy cu Bình đứng tồng ngỗng ở cửa buồng, cô nói thật nhanh:
– Con xuống hầm đi, còn đứng đây làm gì. U phải ra trận địa pháo. Khi nào u về u gọi mới được lên.
Thằng Bình lớn tướng, 15 tuổi nhưng trổ mã như thanh niên. Nó chưa hẳn đã coi Đào là mẹ đâu, vì hồi nó 10 tuổi, Đào về quê nó và nói là vợ thứ 2 của bố, giờ là mẹ kế của nó. Nó bị chúng bạn học trêu lên trêu xuống là “Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời mẹ ghẻ lại thương con chồng”. Thế rồi cái đó nó cứ ăn sâu vào tâm trí nó, thành ra nó không thể coi Đào là mẹ được. Với nó, chỉ có mẹ Hồng, người mẹ trong tấm ảnh đen trắng trên bàn thờ là mẹ nó, mặc dù nó cũng không gần gũi mẹ nhiều, 2 tuổi mẹ đã theo bố ra chiến trường rồi hy sinh.
Bình mới 15 tuổi, nó chưa đủ tuổi đi bộ đội, phải sang năm may ra mới được, chứ cân nặng và chiều cao thì nó đủ từ năm ngoài rồi. Mấy lần nó xin U, xin mấy chú trên huyện đội cho nó đi nhưng không ai đồng ý. Thứ nhất nó còn chưa đủ tuổi, thứ 2 nó là con trai duy nhất của bộ đội chủ lực nên được ưu tiên chưa phải đi nếu không có lệnh tổng động viên.
Thằng Cu Bình cự:
– U cho tôi theo u ra trận địa, tôi khỏe mạnh thế này, tôi làm được nhiều việc rồi. Tôi bê đạn, bê pháo khỏe hơn u. Tôi cũng biết bắn súng rồi, hôm nọ tôi bắn trên huyện còn trúng vòng 8 đấy. Tôi không xuống hầm đâu.
Ở mỗi gia đình đều có một hầm trú ẩn, thường là đào ở vườn, dưới một gốc cây to. Độ to và độ sâu tùy theo nhà có mấy người cần trú ẩn mỗi khi có bom. Thường thì đào vừa đủ cho số người trong nhà, ở dưới hầm có bịch bidong nước uống, trên có nắp hầm bằng các cây gỗ to kết lại với nhau.
Đào cầm tay Bình kéo nó chạy ra vườn, nơi có cái hầm trú ẩn đơn mà cô đào cho nó từ lâu rồi. Vừa kéo tay Bình, Đào vừa nói như van vỉ, cô chưa bao giờ nói nặng với Bình kể từ lúc làm mẹ đến giờ, vẫn nuông chiều như chính con đẻ mình:
– U không cho con ra trận địa. Ở đó nguy hiểm lắm. Nhỡ may có chuyện gì thì u ăn nói thế nào với bố con.
Nhưng lần này khác với những lần trước, Bình không nghe theo lời Đào chui xuống hầm trú ẩn chờ đến khi nào còi báo an toàn mới chui lên, lần này Bình giật mạnh tay Đào làm cô xuýt chút nữa thì ngã nhào vào cái mình trần của con.
– Tôi không xuống hầm đâu, nhục lắm. Lần này u không cho tôi đi tôi cũng đi bằng được. Tôi phải xem cái thằng giặc Mỹ nó thế nào. Để sau này tôi còn vào trong kia đánh nó.
Thấy Bình cương quyết đi theo, lại nghe thấy tiếng còi báo động hú lên đến hồi thứ 3, không thể chậm trễ hơn nữa, Đào vội vàng phi vào trong buồng, lục cái áo trấn thủ từ hồi cô còn ở B ra đưa cho Bình.
– Mặc cái này vào rồi theo U, không được rời U nửa bước biết chưa.
Thế là 2 mẹ con, một trước một sau chạy như bay ra trận địa pháo. Trận địa pháo cao xạ của bộ đội nằm rìa làng Lở, chỗ tiếp giáp với ruộng của nhân dân địa phương, mỗi trận địa gồm 6 tổ hợp pháp 37mm, 57mm và 85mm. Mỗi tổ hợp lại gồm 4 khẩu. Được sắp xếp theo phương vị khác nhau theo chiến thuật của pháo binh. Ở trận địa có bộ đội của Bộ tư lệnh pháo binh điều khiển.
Hòa theo dòng người là dân quân địa phương từ trong làng nhao ra, mẹ con Đào rất nhanh đã ra tới trận địa, vào tổ hợp pháo 57mm số 3, nằm trên một ụ đất, ở dưới có đổ đất tạo thành một đường mòn kéo pháo lên. Cạnh đó có một hầm trú ẩn đủ chỗ cho 5 người chui xuống trú, cũng là nơi cất trữ đạn pháo, phòng trường hợp bị bom đánh trúng thì trú ở đó.
Lúc Đào đến thì bộ đội đã vào vị trí chiến đấu. Đào rất nhanh đã tập hợp đội dân quân của mình ở bên dưới, sẵn sàng tiếp đạn. Cô kéo Bình ra phía sau lưng mình, chỉnh lại cái mũ cối có lót một lớp rơm bên ngoài rồi dõng dạc hô:
– Tiểu đội 2 tập hợp đợi lệnh!
Rất nhanh, 13 cô gái tuổi đời còn rất trẻ, trời tối không nhìn rõ khuôn mặt nhưng trong ánh mắt hiện lên vẻ ngoan cường. Các cô xếp thành 2 hàng ngay ngắn, đứng nghiêm, súng vắt sau lưng, đồng thanh hô rõ:
– Tiểu đội 2 sẵn sàng!
Mười ba người chung một ý chí. Cùng hướng lên ụ pháo cao xạ 57mm phía bên trên. Chờ đợi những loạt đạn đầu tiên phát nổ.
Bình cũng vậy, đây là lần đầu tiên Bình được theo U ra trận địa pháo. Những ngày trước, mỗi lần có báo động máy bay, cậu đều phải nằm trong hầm nghe tiếng máy bay ù ù bay qua, nghe tiếng pháo nổ giòn tan từ phía cánh đồng ùa về. Rồi lén mở nắp hầm nhìn vệt pháo lao vút từ làng mình lên bầu trời. Có nhiều lần, pháo bắn trúng máy bay, tạo thành những chòm lửa tỏa ra trên bầu trời trông rất đẹp mắt.
Bình là thanh niên, cậu tự nghĩ như vậy, cứ tự nghĩ mình lớn hơn so với cái tuổi 15, cậu nghĩ mình đủ sức khỏe, đủ gan dạ để cầm súng đánh giặc. Mẹ của cậu đã hy sinh anh dũng trong chiến trường, cha đang đánh giặc trong nam, cậu là con trai của cha mẹ, không thể nhút nhát trốn trong hầm mỗi lần đối mặt với giặc Mỹ được.
Bình chăm chú nhìn trắc thủ pháo cao xạ đang căng mắt dòm vào vòng tròn bắt phương vị hướng về phía biển Đông. Tay liên tục quay. Ở bên cạnh, pháo thủ, chỉ huy cầm cờ vẫn đang chăm chú nhìn về phía đông.
Thấy con đứng lơ ngơ, mắt chăm chú nhìn lên phía trên, Đào vội kéo con nằm sát xuống một ụ đất cạnh hầm cùng với tiểu đội của mình, cô nói với con:
Nằm sát xuống đây cạnh u. Bịt tai lại, tí nữa tiếng pháo nổ ong hết đầu đấy.
Bình cũng nằm xuống, nhưng không bịt tai mà hỏi u:
– Sao người ta biết hướng máy bay từ kia bay lại hả u?
Với kiến thức nhiều năm ở chiến trường, lại là đội trưởng nữ dân quân tự vệ làng, Đào không lạ gì, hồi chưa có bộ đội chủ lực về lập trận địa pháo cao xạ, chính Đào và đội dân quân của mình còn triển khai trận địa súng tầm thấp 12 ly 7. Nhưng càng về sau, không còn máy bay phản lực, bọn A6, A7, F111 bay tầm thấp để bắt chính xác mục tiêu nữa, mà thay vào đó mà những cái F – 4, EB66 bay cao hơn, vượt qua tầm bắn nên vô hiệu 12ly7. Thay vào đó là pháo cao xạ 37mm, 57mm và 85mm.
– Bọn Mỹ cho máy bay từ đảo Guam, từ tàu sân bay, từ căn cứ Apatao, qua Hải Phòng rồi bay đến Hà Nội thả bom. Sau đó chúng vòng lên Việt Trì – Thái Nguyên hoặc bay về mạn Nam Hà thả nốt bom rồi ra biển.
Bình càng nghe càng hứng thú, trên bầu trời, vẫn chưa có động tĩnh gì, mọi thứ tĩnh lặng đến kỳ lạ, kể cả tiếng côn trùng cũng im bặt như báo hiệu một cái gì đó ghê gớm. Chỉ còn tiếng rì rào khe khẽ của gió dập dềnh đập vào cây lúa trĩu bông ở phía trước pha lẫn tiếng rít rít của trắc thủ đang quay đĩa phương vị mà thôi. Cậu nhìn sang bên cạnh, các chị dân quân hơn mình vài tuổi đang chăm chú nhìn lên bầu trời, Bình vừa tự nói với mình nhưng cũng là câu hỏi.
– Tôi thấy thỉnh thoảng mình mới bắn rơi được 1 chiếc.
Kèm với đó là tiếng thở dài kiểu thất vọng. Đào lại nói thêm:
– Đó là chiến thuật, từ tận Hải Phòng kéo về đây là liên hợp lưới phòng không. Chỗ này là điểm cuối cùng trước khi bọn nó bay vào bầu trời Hà Nội. Mục đích là để nó trút càng nhiều bom càng tốt con hiểu không? Nó hết bom rồi thì máy bay của ta, rồi Sam – 2 Sam – 3 sẽ diệt nó. Nó trút bom ngoài này rồi thì ở trong nội thành mới ít phải chịu bom.
Bình như vỡ lẽ ra điều gì đó, đây chẳng phải là vùng nông thôn hy sinh cho thành thị hay sao, điều đó Bình cũng được học khi còn ở trên ghế nhà trường. Mục đích của lưới phòng không ngoài biên này là để máy bay Mỹ thả vợi bom đi trước khi vào nội thành.
Đúng lúc này, tiếng ù ù từ trên bầu trời bắt đầu vọng lại, nhưng nó có nhỏ hơn so với tiếng thở nặng nề của u, không khí căng thẳng bao trùm. Bỗng Bình nghe thấy tiếng một chú bộ đội trên ụ pháo hô to:
– Đã bắt được đường bay của F – 4. Độ cao 8 cây, hướng Đông 160 độ…
Như một cỗ máy được lập trình từ trước, chỉ huy giơ cao cờ trong tay nhưng chưa phất xuống, hô to:
– Chỉnh pháo, độ cao 8 cây, hướng Đông 160 độ.
Thế là tiếng xoẹt xoẹt xoẹt liên tiếp vang lên, khẩu pháo được quay ngược hướng lên phía trên. Phía bên dưới, ngoài những quả đạn pháo lắp sẵn trong ống pháo chờ kích nổ, các chú bộ đội tiếp pháo đã sẵn sàng trong tay một quả nữa để sau loạt bắn đầu thì tiếp pháo ngay.
Trời đêm tối, nhưng nhờ ánh sao, cũng có thể nhìn thấy lờ mờ một tốp máy bay hơn chục chiếc đang xếp thành chữ V bay trên bầu trời.
Chỉ huy hạ lệnh:
– Bốn loạt bắn nhanh… bắn!
“Đoàng! Đoàng! Đoàng! Đoàng!”, 4 Tiếng nổ đinh tai nhức óc vang lên liên tiếp. Không chỉ ở ụ pháo này, mà khắp cả vùng đều vang lên những tiếng tương tự.
Loạt đạn đầu tiên phóng lên trời kéo theo một màn lửa khói làm sáng rực cả một góc trời. Nếu không phải đây là chiến tranh, cảnh tượng này hùng vĩ, tráng lệ và đẹp mắt biết bao.
Đáng tiếc, pháo bắn lên, bom trút xuống.
Khi loạt pháo đầu bắn xong, là tiếng loảng xoảng của tiếp đạn. Một loạt 4 viên đạn 57mm lại được đút vào nóng pháo nóng rực. Kèm theo đó là tiếng bom từ xung quanh vòng về, “uỳnh uỳnh uỳnh”, chưa biết thương vong thế nào. Nhưng thời khắc này không ai quan tâm, đội pháo binh chỉ biết bắn lên để cầu may, để mong cho máy bay Mỹ thả càng nhiều bom xuống mình càng tốt. Chỉ cần máy bay còn trong tầm bắn của mình là bắn mà thôi.
Pháo được quay ngược lại hướng về phía Tây, lại một tiếng hô nữa vang lên:
– Bốn loạt bắn nhanh… bắn!
Khi cờ vừa được phát xuống là 4 tiếng nổ giòn giã, đinh tai nhức óc nữa lại vang lên, kèm với đó là tiếng bom nổ tại mặt đất ở chỗ xa xa vọng về. Bầu trời lại rực sáng, đỏ lòm.
Kết thúc loạt đạn, Đào đứng dậy hô to:
– Các đồng chí, tiếp đạn.
Ào một cái, các nữ dân quân xếp thành hàng chuyền tay nhau từng quả đạn pháo 57mm từ dưới hầm ngầm lên đến ụ pháo, xếp ngay ngắn dưới chân.
Nếu như là trận chiến sinh tử thì kết thúc loạt thứ 2 phải đổi trận địa pháo tránh máy bay tầm nhiệt bắt được mục tiêu sẽ đánh chính xác tọa độ của trận địa. Nhưng qua nhiều lần, máy bay Mỹ chỉ bay ngang qua, thả vu vơ một ít bom xuống để giảm hỏa lực mà thôi. Mục tiêu chính của chúng là nội thành Hà Nội cơ.
Thêm một loạt bắn đuổi nữa của pháo cao xạ thì tiếng máy đã xa dần, vượt qua tầm bắn của đạn. Cả trận địa thở phào, coi như kết thúc một đợt chiến đấu.
Đào đưa mắt nhìn về phía làng, thấy ở một cột khói và lấp lóe ánh lửa, cô hô:
– Hình như chỗ nhà cụ Tứ bị cháy, phân đội 1 cứu lửa. Phân đội 2 đi kiểm tra thương vong.
– Rõ!
Rất nhanh, đội dân quân chia làm 2 ngả chạy về hướng trong làng. Còn mình Đào ở lại bên cạnh ụ pháo, cô có nhiệm vụ bổ sung đủ số lượng pháo vừa bắn vào trong hầm và trên trận địa.
Bình ở cạnh cũng bê pháo giúp u.
Thế rồi, lại có tiếng máy bay ù ù từ hướng Hà Nội vọng về. Tiếng còi báo động lại một lần nữa vang lên. Bộ đội chưa kịp nghỉ ngơi lại tiếp tục chỉnh nòng pháo.
Đào hô to lên:
– Nguy rồi các đồng chí. Nó quay lại đấy.
“Nó quay lại đấy!”, Đó là câu cực kỳ nguy hiểm, bởi một khi quay lại, tức là nó có tọa độ chính xác của trận địa pháo bởi máy bay tầm nhiệt F – 4 đã bắt được tọa độ lúc đi qua, giờ nó quay lại thì bom không thả vu vơ nữa mà là chính xác.
Nhưng các đồng chí bộ đội không hề nao núng, tiếp tục chĩa thẳng pháo lên trời, 4 loạt bắn nhanh từ nòng pháo phóng lên.
Ầm!
Một tiếng nổ như xé tan màn đêm, một quả bom khổng lồ nổ sát sàn sạt trận địa. Không kịp suy nghĩ gì nhiều, Đào ôm chặt cu Bình nhảy xuống hầm trú ẩn.
Rào rào! Tiếng đất đá đổ sầm xuống hầm, lấp kín cả trong lẫn cửa hầm.
Chỉ vài giây sau, khi tiếng bom không còn, Đào mở trừng hai mắt nhìn xung quanh, nhưng không nhìn thấy gì, tối om. Cô quơ quơ tay để xác định vị trí, may quá vẫn còn một khoảng không rất hẹp bên cạnh mấy hòm pháo, cũng may cô nhảy vào khe này được. Còn thằng Bình đâu?
Bỗng Đào thấy dưới thân mình có tiếng cử động nhẹ nhàng, tối om nên cô không nhìn thấy gì, chỉ cảm thấy cả thân người mình nằm úp xuống, còn ở bên dưới, thằng Bình đang nằm ngửa, hai mẹ con nằm đè lên nhau như tư thế làm tình.