Chống quân Nguyên Mông

Chương 4



Phần 4: Trí nhớ siêu thần, Ngũ Độc Bí Truyền

Nghỉ ngơi một đêm, thay đổi y phục, ngoại hình thiếu nữ lại trở về trắng tinh như tuyết chỉ trừ mái tóc, má hồng nhuận phơn phớt, nét tròn trịa đáng yêu bớt đi một chút vì dầm sương dãi nắng nhiều ngày, ngược lại hình dung hao gầy làm nàng trông càng thành thục, kiều mị, yêu diễm hơn.

Nụ cười tự tin trên gương mặt sáng bừng của Nhất Long khiến hai người ngỡ ngàng, Hà Bổng cau mày khi nhìn thấy Hà Đặc bước vào, hốc mắt hãm sâu, bên dưới là hai cái bọng sưng to đùng. Đầu tóc hắn rối bời, mồ hôi chảy đầy mặt ướt nhẹp giữa trời đông buốt giá, hai tay run rẩy không ngừng.

Mới một đêm trôi qua, chắc chưa có tiến triển gì, Hà Bổng thầm nghĩ, nhưng vẻ mệt mỏi không chịu nổi, muốn đổ sụp bất kỳ khi nào của Hà Đặc, tương phản với vẻ thần thanh khí sảng của Nhất Long, chắc trong này có điều gì đó ám muội, ông nói:

– “Cảm tạ Lục cô nương đã chia sẻ trận pháp ‘Loạn Thạch Trận’, bổn trại chủ sẽ cho người đi sắp xếp ngay, chỉ mong kịp hoàn thành trước khi giặc Thát tới.”

Đoạn trầm giọng:

– “Hà Đặc, ta giao cho ngươi dạy dỗ Nguyễn công tử, thế nào?”

Hà Đặc giật mình một cái, vẻ mặt quái dị, giọng khàn đặc:

– “Cái này… cái này…”

Hà Bổng nghiêm giọng:

– “Nặc tha. Ngươi lại say men lá cả đêm, bỏ mặc Nguyễn công tử?”

Hà Đặc bối rối, hắn vội xua tay:

– “Anh Bổng, không có đâu. Em thức suốt đêm dạy, bây giờ mỏi cái đầu lắm rồi.”

Thổ quan người Tày giận tím mặt, định ra lệnh trừng phạt Hà Đặc thì Nhất Long lên tiếng:

– “Hà trại chủ đừng nóng. Hà Đặc nói lời thật, hắn thức cả đêm hôm qua dạy dỗ ta.”

Hà Bổng trừng mắt ngạc nhiên, không thể tin vào lỗ tai mình. Chàng thiếu niên trước mắt có vầng trán cao rộng sáng bừng, đôi mắt lấp lánh hữu thần, mày ngài sắc bén, không giống như một người vừa thức cả đêm dài, còn Hà Đặc hình dung tiều tụy, mồ hôi lạnh đầy trán, xem chừng đúng là hao tâm quá độ mà nên.

Tiếng Tày mà Nhất Long nói thật hoàn hảo, không khác gì dân bản xứ sinh sống nhiều năm, lên bổng xuống trầm không khác gì cách ăn nói của Hà Đặc cả, từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến giờ Hà Bổng chưa bao giờ thấy có sự việc khó tin đến như vậy, lòng bán tín bán nghi hỏi:

– “Nguyễn công tử, tiếng nói của ngươi thật là điêu luyện. Không lẽ Nguyễn công tử đã biết tiếng Tày từ trước?”

Chắp tay hành lễ, Nhất Long vội giải thích bằng tiếng Hán:

– “Thật không phải. Lúc ở kinh đô ta có ngã một lần, đầu đập vào đá ngất đi, khi tỉnh dậy thì không nhớ gì nữa. Ta chợt phát hiện bản thân có khả năng nhìn một lần là nhớ, nghe một lần là thông. Đêm qua ta xin Hà Đặc dạy cho tiếng Tày, sau đó là tiếng Hán, tiếng Mông Cổ, tiếng Đại Lý, tiếng Miêu, tiếng Thái…”

Nghe Nhất Long liệt kê một đống thứ tiếng, Hà Bổng đổ mồ hôi như mưa, lòng thầm kinh hãi, thật hay giả? Đập đầu một cái, quên hết chuyện cũ, một bước thành kỳ tài siêu việt cổ kim?

Một thiên tài chỉ trong bảy ngày nói lưu loát một thứ ngoại ngữ đã là yêu nghiệt, thiên kiêu chi tử, vậy thiếu niên này chỉ một đêm biết nói gần chục thứ tiếng, thì là thứ quái vật gì?

Trong lòng chết lặng, miệng khô lưỡi đắng không biết phải nói gì, Hà Bổng liếc mắt nhìn em ruột Hà Chương, hắn liền hiểu ý, đưa tay dìu Hà Đặc, đem người qua lều khác nghỉ ngơi.

Ít lâu sau, Hà Chương vén màn bước vào, chắp tay nói:

– “Anh Bổng, sự tình đúng như Nguyễn công tử nói. Đêm qua Hà Đặc dạy tiếng Tày được nửa chừng, liền chạy ra ngoài gọi thêm người biết mấy thứ tiếng khác vào. Sáu người cầm sách chỉ dẫn sáu thứ tiếng khác nhau cùng một lúc, ấy vậy mà Nguyễn công tử chỉ nghe một lần là hiểu, còn biết đọc biết viết như người bản xứ. Năm người kia mỏi cái miệng, cái đầu quá, xin nghỉ sớm rồi. Thật là thần kỳ!”

Long thầm đắc ý, sáu người không phải cực hạn, dù là có bao nhiêu âm thanh hỗn tạp, chỉ cần vận dụng suy nghĩ siêu tốc sắp xếp thành từng tiếng nói và chữ viết cụ thể, xếp vào các nơi riêng biệt, đầu óc máy tính liền có khả năng vận dụng ngữ pháp được dạy, liên kết tài liệu liên quan, sau đó chỉ việc phát âm thanh qua Loa máy tính – Speaker bằng giọng bản thân để nói, đảm bảo lưu loát y hệt người dạy.

Còn viết chữ cái gì, quá đơn giản, bấm Print – in văn bản một cái là xong!

Nhất Long: Gian lận ta có, bàn tay vàng của ta, đó chính là Copy Paste Thần Công!

Hà Bổng vội chắp tay thán phục:

– “Nguyễn công tử quả là thiên kiêu chi tử, kỳ tài trong các bậc kỳ tài!”

Thiếu nữ áo trắng sững sờ kinh diễm, đêm qua nàng dùng tiếng Hán đối thoại với Hà Bổng, nên lời Nhất Long đã nghe được rõ rành rành. Hóa ra chàng không có ý xấu, chỉ là mất trí nhớ nên quên hết lễ nghĩa, chợt mỉm cười thú vị, dù không biết võ công, chẳng có nội lực nhưng vẫn liều mình cứu nàng chẳng cần hồi báo, nay được biết Nhất Long không những có khuôn mặt tuấn tú mà còn có trí nhớ tột đỉnh cổ kim hiếm thấy, trong lòng lại càng vừa ý chàng hơn.

Nhất Long chắp tay với thiếu nữ áo trắng, trịnh trọng mở lời:

– “Bạch y tiểu thư, tại hạ tên Nguyễn Nhất Long, năm nay mười bảy tuổi, do mất trí nhớ nên trong mật thất đã đường đột giai nhân, xin được tạ tội! Dám hỏi tiểu thư cao danh quý tính là chi, tuổi tác thế nào, để tại hạ xưng hô cho tiện?”

Thiếu nữ thầm hài lòng, đã là thiên kiêu chi tử kỳ tài hiếm có, mà thái độ vô cùng nhún nhường thân sĩ, không lên mặt ta đây với ai, nhìn càng thuận mắt, hơi chút e lệ trả lời.

– “Tiểu nữ là người trong giang hồ, xin Nguyễn công tử không cần đa lễ. Chuyện trước kia chỉ là hiểu lầm, mong Nguyễn công tử bỏ qua cho. Tiểu nữ tên Lục Quan Quan, năm nay mười lăm tuổi. Huynh cứ gọi ta là Quan Quan là được. Ta có thể gọi huynh là Nguyễn ca ca không?”

Hà Bổng trợn trắng mắt, trai gái bây giờ thật tự do, tự quyết định chuyện yêu đương, chỉ mới trải qua mấy ngày đi đường với nhau, đã xưng huynh gọi muội, cô bé lại còn mở đường cho hươu chạy, gọi thẳng tên nhau như thế thì thân mật quá. Thầm nghĩ thiếu nữ vẫn còn quá non nớt chưa biết thế nhân hiểm ác, thế sự khôn lường, Hà Bổng hắng giọng, mở lời khuyên bảo:

– “Lục cô nương, Nguyễn công tử tạm thời mất trí nhớ, không biết cách xưng hô, gọi như vậy e rằng thiệt thòi cho cô nương, người đời hiểu lầm…”

Lục Quan Quan cắn môi một cái rất trẻ con, trừng mắt nhìn Hà Bổng, lời nói xoay chuyển:

– “Cảm ơn Hà trại chủ có lời, tiểu nữ sẽ thận trọng đối đãi. Không biết Hà trại chủ đã liên lạc được với Thiên Định Hiền Vương chưa?”

Tù trưởng người Tày đưa tay mời Lục Quan Quan và Nhất Long ngồi, miệng phì phèo tẩu thuốc, mời một chén rượu men lá, rồi mới bắt đầu nói:

– “Thật có lỗi, Lục cô nương. Quân giặc thủ trong kinh, Đoàn Hoàng Gia với gần hai vạn quân bị dồn vào giữa, thủ vệ tầng tầng lớp lớp, chúng tôi vẫn chưa có cách nào.”

Lục Quan Quan cau mày, nói:

– “Không biết lối vào mật thất ở gần sông mà ta nói có giúp ích gì cho Hà trại chủ hay không?”

Hà Bổng nắm râu, đáp:

– “Theo lời Lục cô nương kể, mật thất đã bị phát hiện rồi, quân giặc sẽ canh phòng các phương, phòng có ai lẻn vào và tìm lối vào mật thất. Kế sách này không khả thi.”

Đoạn tiếp lời:

– “Ta biết Lục cô nương lo lắng cho an nguy của biểu tỷ, những người Đại Lý ở đây cũng vừa mất nước, vô cùng căm hận quân giặc. Chúng tôi đã đốt hết sạn đạo quanh đây rồi, giặc muốn về phương Bắc ắt chỉ còn một đường, đó là lúc chúng phải chôn thây ở Quy Hóa này. Khi đó các tướng lĩnh sẽ vòng ra sau quân giặc, bắt sống Ngột Lương Hợp Thai, giải cứu cho biểu tỷ của cô nương.”

Kế hoạch đầy những biến số, quân giặc có gần 4 vạn, nhân thủ của Hà Bổng chưa tới 1 vạn tính cả phụ nữ và trẻ em, cao thủ trong quân Mông Cổ nhiều vô số, kế chém đầu này muốn thực hiện thì phải có một cánh quân vô cùng tinh nhuệ, võ công cao cường, nhưng từ lúc đến trại này Lục Quan Quan đã quan sát kỹ, ngoài ba anh em họ Hà ra, không ai có võ nghệ đủ cao để so đấu với nàng.

Thần sắc Lục Quan Quan chợt trở nên bần thần, trước kia nàng tự phụ rằng võ công của mình với biểu tỷ đã là hiếm thấy trên đời, chẳng ngờ quân Mông Cổ xuôi nam, Đại Lý bại vong, trên đường trốn chạy về phía Nam, nàng và biểu tỷ dễ dàng bị Kim Luân Pháp Vương chế phục, những tưởng sẽ bị quân giặc cầm thú cướp đi trinh bạch, may mà được Nhất Long kịp thời tương cứu.

Nhìn vẻ lo lắng thất thần của nàng, Nhất Long nảy sinh lòng thương cảm, nhưng cái tên của nàng có một điều gì đó làm hắn thấy quen thuộc, đành phải lên tiếng:

– “Lục cô nương, hèm, Quan Quan, mạo muội hỏi một câu, chẳng hay biểu tỷ tên gì, cha mẹ nàng tên gì, hiện giờ ở đâu?”

Lục Quan Quan chợt tỉnh hồn, quay sang Hà Bổng nhẹ giọng:

– “Tiểu nữ trong lúc vội vàng chưa kịp báo danh tính biểu tỷ, mong Hà trại chủ lượng thứ. Nguyễn ca ca, biểu tỷ tên Trình Tiêu, bằng tuổi với ta, mẫu thân ta tên Lục Vô Song, là biểu muội của mẫu thân nàng, người tên gọi Trình Anh, nhà chúng ta vốn ở Ngưu Gia Thôn vùng quê Gia Hưng, phủ Lâm An.”

Đôi mắt Long chợt sáng bừng lên, Trình Anh, Lục Vô Song, đây chẳng phải là tên nhân vật trong phim Thần Điêu Đại Hiệp chiếu trên phim truyền hình đây sao, hắn vội hỏi:

– “Vậy làm sao hai người lại đến nơi này?”

Quan sát biểu cảm hứng chí bừng bừng của hắn, Lục Quan Quan thầm xác nhận trong lòng, hai cái tên Lục Vô Song và Trình Anh gây ấn tượng không nhỏ với Nhất Long, xem ra chàng từng nghe tới tiếng tăm trên giang hồ của mẫu thân và di mẫu, ngoài ra, trí nhớ đang dần trở lại với chàng.

Ánh mắt bồi hồi nhớ lại chuyện đã qua, Lục Quan Quan nhẹ nhàng kể:

– “Hàng xóm của chúng ta là Khúc Cô, tính tình lúc điên lúc khùng nhưng võ công rất cao. Riêng phụ thân chúng ta là ai thì mẫu thân nhất quyết không nói. Một ngày nọ Khúc Cô lên cơn mê loạn, chợt chỉ vào chúng ta, hô cứu mạng, Dương huynh đệ, đừng tìm Khúc Cô, coi chúng ta là ma, là oan hồn đòi mạng…”

Nhấp một ngụm rượu để dịu nỗi lòng, Lục Quan Quan nói tiếp:

– “Ta suy đoán phụ thân họ Dương, có mối thù với Khúc Cô, bèn rủ biểu tỷ rời nhà đi ngao du sơn thủy, tìm người đàn ông họ Dương. Bôn ba nhiều ngày, có người nói ở Giang Nam có một quái nhân cụt tay họ Dương, hay múa kiếm gỗ bên bờ biển. Bất kể thuyền sư hải khách nào cập bờ, hắn cũng hỏi có ai biết gì về một người tên Nam Hải Thần Ni ở đảo Đại Trí hay không.”

Nói tới đây, Lục Quan Quan lộ vẻ áy náy tự trách, kể tiếp:

– “Ta và biểu tỷ đã đi dọc cả bờ biển Giang Nam, nhưng không tìm được quái nhân ấy. Chúng ta suy đoán người đã đi Nam Hải tìm Thần Ni, bèn tìm đường đến bến Bạch Đằng ở Dương Kinh để hỏi thăm tin tức xem sao. Ngờ đâu gặp phải lão gian tặc Kim Luân Pháp Vương, bị bắt về trại quân Mông Cổ, may sao được Nguyễn ca ca cứu ra.”

Lục Quan Quan chợt quỳ xuống đất:

– “Biểu tỷ vốn tính tình hiền lành, bị ta xúi giục nên mới bỏ nhà đi theo. Tỷ bị bắt là do ta tài hèn sức mọn, coi trời bằng vung. Hà trại chủ, tiểu nữ hạ mình, cầu xin ông hãy cứu biểu tỷ Trình Tiêu, nếu nàng có mệnh hệ gì, ta không biết phải nói sao với cô cô!”

Hà Bổng vội trầm giọng khuyên nhủ:

– “Lục cô nương hãy đứng lên đi. Bổn trại chủ sẽ cố hết sức. Chỉ mong Đoàn Hoàng Gia bắt được tin tức, nội ứng ngoại hợp, cho quân giặc một kích chí mạng, như vậy chúng sẽ không phát hiện ra chúng ta vòng vào phía sau giải cứu tù binh. Ở trại ai cũng có người thân bị bắt đi cả, mong Lục cô nương đừng tự trách mình.”

Trong trướng chợt nổi lên tiếng sáo, trong trẻo, du dương, có phần bi thương lại chuyển hào hùng, réo rắt lay động nhân tâm, chợt dừng lại ở nốt hoan hỷ, như mừng vui được thấy thân bằng quyến thuộc. Ba người nhìn theo, thấy một người bệ vệ, áo bào rộng lùng thùng, nước da mịn màng sáng sủa.

Người lạ mặt chắp tay, nói:

– “Cô nương quá thương tâm, tại hạ mạo muội thổi một khúc giải sầu, xin đừng trách tội.”

Lục Quan Quan nén nỗi lòng, hỏi:

– “Các hạ là người nào?”

Gã thư sinh đáp:

– “Tại hạ họ Cao, tên Thái Xuân, tước Quân Hầu ở Đại Lý. Đại tướng quân Cao Thái Tường là phụ thân tại hạ, trước khi hy sinh vì nước đã phó thác cho tại hạ bảo vệ Đoàn Hoàng Gia, quyết không thể rơi vào tay giặc. Không ngờ tại hạ tài hèn sức mọn, phụ lòng ủy thác, bại dưới tay Kim Luân Pháp Vương, Đại Lý vong quốc cũng vì ta. Ôi thôi!”

Nguyên dòng họ Cao ở Đại Lý đời đời phò tá họ Đoàn, được ban tước hầu cha truyền con nối. ‘Đoàn Hoàng Gia’ chính là Đoàn Hưng Trí, vua nước Đại Lý, tuổi còn khá nhỏ. Đoàn Hưng Trí lên ngôi chưa đầy hai năm đã mất nước, được bọn Ngư Tiều Canh Độc cứu ra.

Cao Thái Xuân mang Đoàn Hưng Trí lưu lạc gần một năm thì gặp phải Kim Luân Pháp Vương, lại để người bị bắt trở lại. Thành thử hắn vô cùng áy náy trong lòng. Hỏi tên hai người xong, Cao Thái Xuân chắp tay với Hà Bổng:

– “Hà tướng quân, tại hạ vừa tra sát địch tình trở về, quân giặc canh phòng nghiêm mật, hiệu lệnh chặt chẽ tại hạ không có cách nào nhập thành để truyền tin cho Đoàn Hoàng Gia. Không biết tướng quân có diệu kế gì hay không?”

Hà Bổng vân vê chòm râu, kể đại khái cho Cao Thái Xuân nghe hai người Lục Quan Quan và Nhất Long đã thoát khỏi kinh thành như thế nào. Ánh mắt Cao Thái Xuân chợt sáng lên:

– “Hay quá. Với võ nghệ của tại hạ, có thể thần không biết quỷ không hay lẻn vào. Tại hạ thạo tiếng Mông Cổ, khi đã vào nội thành có thể trà trộn dễ dàng, bắt được liên lạc với Đoàn Hoàng Gia.”

Lông mày Hà Bổng nhíu lại:

– “Nhưng việc bên dưới hoàng cung có mật thất đã lộ ra rồi. Ta chỉ sợ quân giặc vờ như chưa phát hiện thông đạo, giăng bẫy chờ có kẻ đi vào mà thôi!”

Cao Thái Xuân đáp:

– “Dù có là cạm bẫy, tại hạ cũng không sợ. Năm xưa tại hạ có duyên được bái kiến Từ Ân Đại Sư Cừu Thiên Nhận, được người chân truyền công phu Thiết Chưởng Thủy Thượng Phiêu, ra vào quân Thát như chốn không người. Nay đã có lối vào, tại hạ có thể giết một tên giặc, mặc quần áo của hắn rồi trà trộn vào.”

Đoạn hắn cười khẳng khái:

– “Nếu bị phát hiện, tại hạ có thể toàn thân thối lui, trốn vào rừng núi dễ dàng. Nói ra thật xấu hổ, tại hạ học nghệ không tinh, chẳng thể bay qua tường thành, nhưng dùng Thiết Chưởng Công để độn thổ thì thừa sức. Năm xưa Từ Ân Đại Sư luận võ với sư thúc tổ phái Toàn Chân, hai người truy đuổi nhau hàng vạn dặm mà Lão Ngoan Đồng còn không theo kịp, nói gì là quân Thát!”

Hà Bổng định khuyên bảo, thấy ánh mắt quyết tử không sờn của Cao Thái Xuân, lại thôi không nói nữa. Ông đành phân phó:

– “Cao Quân Hầu đã quyết tâm, thì hãy hành sự cẩn trọng, mong tráng sĩ mã đáo thành công. Lục cô nương, chỉ có hai người biết lối vào mật thất ở đâu, Nguyễn công tử lại không biết võ công, vậy đành phiền cô nương dẫn đường, nếu thấy nguy hiểm hãy mau quay lại.”

Nhất Long nào dám để Lục Quan Quan gặp nguy hiểm, liền nói:

– “Không cần đâu.”

Cao Thái Xuân ngạc nhiên:

– “Nguyễn công tử nói vậy là có ý gì?”

Đưa tay gạt mũi, Nhất Long nói:

– “Tại hạ có biệt tài nhìn một lần là không quên được, lại có chút bản sự thi họa, xin Hà trại chủ cho mượn mấy tấm giấy lớn và bút mực.”

Giấy mực được đưa ra, Nhất Long lựa chọn cỡ to nhất dài hơn một mét, mỗi tay cầm một bút, đứng im trước hai tấm giấy như suy nghĩ điều gì.

Hà Bổng…

Lục Quan Quan…

Cao Thái Xuân…

Nhất Long: Tài liệu có dung lượng hơi lớn, bấm in xong phải chờ tải a!

Chợt hai cây bút vung vẩy liên tục, động tác Nhất Long liên miên bất tận, vẽ nhanh như gió cuốn, ba người chỉ thấy hai cây bút quét ngang liên tục như hai cây chổi, thi thoảng dừng để tiếp mực, chỉ vài hơi thở, bức địa đồ đã hoàn thành.

Tất cả mọi người trong doanh đều kinh ngạc tột độ, không thể tin vào hai mắt mình, còn chưa kịp định thần, Nhất Long đã quét ngang qua tấm giấy thứ hai. Cũng trong chốc lát đã vẽ xong.

Cầm hai tấm địa đồ lên, Hà Bổng trịnh trọng giơ chúng lên cao, sững sờ lẩm bẩm:

– “Thần… thần diệu vô cùng…”

Những người khác cũng kinh ngạc không kém, đây là thủ pháp gì, Họa Thánh, hay là thần nhân giáng thế?

Chỉ thấy hai tấm địa đồ được vẽ trong một khung hình chữ nhật, có nhiều đường kẻ dọc và ngang vuông vức hoàn hảo, ghi chú địa danh rõ ràng, từng con sông, ngọn đồi, cây cỏ, trạm canh, địa hình được tiêu ký, tất cả những gì Nhất Long từng thu vào tầm mắt đều được tái hiện lại không sót một chi tiết nào, như thể hắn có góc nhìn của thần minh, từ trên cao chín tầng mây nhìn xuống mà vẽ bản đồ.

Ở phía trên góc phải, còn có một bảng vuông nhỏ, chú thích ý nghĩa của những đường vuông dọc ngang chỉ khoảng cách bao nhiêu thước, độ cao của từng nơi thế nào.

Bản đồ thứ hai là địa đồ của lối đi bên dưới kinh thành, chính xác đến từng ngóc ngách, từng hòn đá nhỏ, nhìn vào cảm thấy như chính thân mình đang đi trong đó.

Lại nghe loẹt xoẹt tiếng mực nước tích thủy trên giấy, mọi người vừa nhìn sang, thấy Nhất Long thả hai cây bút ra xoa bắp tay, xem chừng họa ba bức tranh là cực hạn của hắn.

Lần này thì không ai còn giữ nổi bình tĩnh, Nhất Long vừa vô lực ngồi vào ghế thì Cao Thái Xuân thò ống sáo vào dưới bức tranh hất một cái, cả tấm giấy nặng nề bay lên như phiến lá thu trong gió, lộn một vòng rồi nhẹ nhõm đáp lên hai bàn tay hắn đưa ra như ôm một báu vật giá trị liên thành.

Bức họa thứ ba là một gian phòng, nhìn họa tiết phượng vũ cửu thiên sống động như thật, ai cũng đoán được là tẩm cung hoàng hậu. Trên giường có tên đàn ông người Mông Cổ đang nằm ngủ, nét vẽ cảnh vật vô cùng quái dị, ai nhìn thấy cũng như được thân lâm họa cảnh, mọi chi tiết rõ ràng như thật, chỉ trừ màu đen trắng ra, cả gian phòng lẫn người nằm đều trông chẳng khác gì vật có thật sờ sờ trước mắt.

Bức tranh thức ba chính là ảnh chụp đen trắng tẩm cung hoàng hậu được in ra trên giấy, do e ngại Lục Quan Quan thương nhớ biểu tỷ, nên Nhất Long xóa đi Trình Tiêu trong ảnh, dẫn đến bên cạnh tên Mông Cổ là một khoảng trống trắng tinh, không vẽ gì vào.

Cao Thái Xuân nhìn tới nhìn lui ba bức họa, trầm trồ không ngớt, say sưa một hồi, nhịn không nổi nữa, cảm khái nói:

– “Tại hạ kiêm cầm kỳ thi họa, tự cho là mình đã tới hóa cảnh tâm đắc. Nay được diện kiến họa tài như thần của Nguyễn công tử kinh động như gặp thiên nhân, mới hay ếch ngồi đáy giếng, bát ngát không trung mãn quang mang. Bái phục, bái phục!”

Hà Chương đứng một bên rút ra một tấm địa đồ, đem so với tranh của Nhất Long, thua kém không chỉ một hai. Độ chính xác trong tranh mới đã tới mức độ chân thực không sai dù chỉ một ly, quả là thần tác, báu vật vô giá.

Hắn cảm khái:

– “Bức tranh của Nguyễn công tử quả cặn kẽ tỉ mỉ, thủ thuật như thần. Chỉ tiếc rằng núi rừng Quy Hóa không có trên địa đồ, thật đáng tiếc!”

Hà Bổng nói:

– “Ta nhận ra tên Thát tử này. Hắn là A Thuật, con trai của tướng giặc Ngột Lương Hợp Thai. Tiễn thuật của hắn bách phát bách trúng, đã giết hại hàng trăm người của ta. Nguyễn công tử, bổn trại chủ muốn nhờ công tử vẽ thêm một bức họa địa đồ núi rừng quanh đây, có thể không?”

Nhất Long cười, đáp:

– “Việc ấy không khó gì, Hà trại chủ cho người dẫn tại hạ đi một vòng quanh những nơi cần họa là được.”

Đoạn nhớ ra điều gì, chắp tay, nói:

– “Các vị, tại hạ có một việc cần nhờ vả.”

Mọi người sảng khoái đáp ứng. Nhất Long bày tỏ ý muốn học võ công. Hà Bổng cau mày:

– “Việc này rất khó. Phàm là những người muốn trở thành cao thủ đều phải luyện tập từ khi còn nhỏ. Muốn luyện thành đắc tâm ứng thủ thì không thể bỏ lỡ căn cơ lúc năm đến mười tuổi. Nay Nguyễn công tử đã hơn mười bảy, chỉ sợ tốn công vô ích.”

Lục Quan Quan cười yêu kiều như thê tử ủng hộ trượng phu:

– “Hà trại chủ, người quên Nguyễn ca ca có trí nhớ phi phàm, học bảy tám thứ tiếng chỉ trong một đêm, họa tài siêu thần nhập thánh, đã nhìn qua ắt tái hiện như thật ư? Trại chủ cứ truyền thụ, hẳn Nguyễn ca ca chỉ cần thấy qua là thành thục điêu luyện.”

Trong lòng nàng như nở hoa, tài năng của Nhất Long quả thật diệu tuyệt cổ kim, tiền vô cổ nhân, hậu vô lai giả.

Hà Bổng đáp:

– “Được!”

Rồi dẫn mọi người ra một bãi đất trống. Hà Bổng đi đầu nói:

– “Bổn trại chủ tu tập Thệ Cam Quyết, ra đòn hiểm độc, khinh công ở tầm thấp. Sát chiêu Tam Chỉ Tam Lý, Trửu Kích Hạ Âm, đánh vào các huyệt ở hai chân và trung đài. Tối hậu chiêu Phi Thiên Bài Phong, không giống với bất kỳ võ công nào của trung thổ, chiêu chiêu hiểm ác, khác biệt với nhân sĩ giang hồ. Chỉ e không hợp với văn sĩ nho nhã như Nguyễn công tử. Chớ trách tội!”

Đoạn đi liền một bài quyền, hai đầu gối chùn thấp, mỗi đòn đều hiểm liệt vô cùng, long trảo vung móc, cùi chỏ đánh hạ bàn, sau đó chợt tung người nhảy cao ba mét, xoay trên không như mũi khoan, tay chân liên tục ra chiêu rồi lộn mèo đáp đất, Nhất Long nhận ra chiêu ‘Phi Thiên Bài Phong’ này rất giống với ‘Ngũ Tuyệt Hợp Nhất’ tạo thành ‘Thiên Ma Vô Tướng’, truyện ‘Song Hùng Kỳ Hiệp’.

Lúc nhỏ, Nhất Long từng ghé vào một cửa hàng truyện tranh, coi cọp được vài trang truyện Song Hùng Kỳ Hiệp, nhân vật Tiểu Ngư Nhi sử ra tuyệt học này đánh bại Hoa Vô Khuyết, chỉ nghĩ là võ công hư cấu, nay không ngờ được diện kiến trong đời thật, ánh mắt sáng bừng lên.

Trong lòng máy động, muốn mô phỏng lại y hệt chiêu Phi Thiên Bài Phong này, Nhất Long chợt dừng lại, nghĩ thầm trong đầu “Hỏa hầu không đủ.”

Chính vậy, chưa có nội lực lẫn ngoại công phù hợp, dù có mô phỏng cũng chỉ làm được hình mà không có chất, không có tác dụng gì trong thực chiến.

Lần đầu tiên nhận thức được sự yếu kém của bản thân, Nhất Long thầm nghĩ, muốn dụng võ phải tu tập một môn nội công, đồng thời rèn luyện thể lực, cường thân kiện thể, nếu không hàng phỏng chế cho dù có giống chính chủ đến đâu, gặp phải cao thủ thì đụng cái là nát, không đỡ được một đòn.

Thi triển xong toàn bộ võ công của mình, Hà Bổng chắp tay, đứng qua một bên, Hà Chương hiểu ý, nói:

– “Tại hạ tài hèn sức mọn, võ công không sánh bằng anh Bổng. Mời hai vị truyền thụ thần công cho Nguyễn công tử.”

Cao Thái Xuân nói:

– “Nguyễn công tử, tại hạ biết bốn loại võ học. Bộ thứ nhất là Châu Sa Thủ, nội lực nóng bỏng như lò lửa, chí cương chí dương, phải được trưởng bối truyền công, mỗi ngày tu luyện hai canh giờ, mấy chục năm mới thành, xem chừng không phù hợp”

Lộ vẻ đáng tiếc, Cao Thái Xuân nói tiếp:

– “Ba bộ tiếp theo là Thiết Chưởng, Thủy Thượng Phiêu và Nhất Dương Chỉ. Tại hạ đã bái Từ Ân Đại Sư làm sư phụ, trừ khi người cho phép, nếu không ta không được phép tiết lộ Thiết Chưởng và Thủy Thượng Phiêu cho người khác. Còn Nhất Dương Chỉ, thì chỉ được truyền dạy trong vương thất Đại Lý. Thật có lỗi, tại hạ không thể truyền cho Nguyễn công tử bộ võ công nào.”

Nói tới nói lui, chính là không truyền!

Hắn nói tiếp:

– “Tại hạ vô cùng khâm phục họa tài như thần của Nguyễn công tử, hiện thời cần kíp bẩm báo với Đoàn Hoàng Gia, xin mượn ba tấm tranh báu. Ngày sau sẽ trả lại, mong công tử rộng lòng.”

Đoạn từ biệt mọi người rồi đi rất nhanh. Lục Quan Quan thầm bĩu môi, mẫu thân hay nói người trong giang hồ miệng lưỡi ngon ngọt nhưng lá mặt lá trái, quả chẳng sai chút nào. Nàng nhìn Hà Bổng nói:

– “Hà trại chủ chắc bề bộn nhiều việc, không tiện tiếp đãi tiểu nữ và Nguyễn ca ca. Trại chủ cứ để chúng tôi tự tiện được rồi.”

Hà Bổng hiểu ý, đáp:

– “Phải.”

Đoạn quay sang Nhất Long:

– “Nguyễn công tử, nếu cần trợ giúp gì, xin cứ nói. Bất kỳ khi nào công tử nhớ ra chút gì về thân phận, thế gia, xin cứ đến tìm ta, bổn trại chủ sẽ cố hết sức để đưa tin cho thân bằng quyến thuộc của công tử.”

Hà Chương cũng cáo từ. Bãi đất chỉ còn lại hai người. Lục Quan Quan nhìn Nhất Long, nói:

– “Nguyễn ca ca, môn võ công của ta và biểu tỷ là Ngọc Nữ Tâm Kinh thuộc phái Cổ Mộ, mẫu thân không hề cấm truyền cho người ngoài, nhưng là võ công dành cho phái nữ. Có điều Nguyễn ca ca phải hứa với ta hai điều!”

Nhìn vẻ mặt nửa xấu hổ nửa thú vị tinh quái của nàng, Nhất Long thấy không quen kiểu xưng hô này, nói:

– “Quan Quan, cứ gọi ta là Long ca ca. Nàng cần ta đáp ứng điều gì?”

Chàng không hay biết chỉ có tình lữ vô cùng thân thiết mới gọi tên nhau như thế, chỉ thiếu gọi nàng là Quan nhi nữa thôi. Lục Quan Quan chợt cúi đầu che đôi má nóng bừng, nói:

– “Long ca ca không có căn cơ nội lực, mà môn nào cũng phải tu luyện từ nhỏ, hàng chục năm mới bắt đầu thành tựu. Trên giang hồ chỉ có vài thần công có thể nhanh chóng đại thành nội lực thâm sâu, đều phải có cơ duyên. Vì vậy ta sẽ dạy Long ca ca ám khí và thân thủ trước để phòng thân.”

Ngước mắt lên, nàng nói tiếp:

– “Nội công Ngọc Nữ Tâm Kinh vô cùng thâm hậu, nhưng khi tập phải có hai người chiếu khán phòng hộ cho nhau, vì phải cởi…”

Nhất Long chợt cắt lời:

– “Muội không cần nói nữa, ta đã biết các yêu cầu của Ngọc Nữ Tâm Kinh.”

Cảnh nóng nhất trong phim Thần Điêu Đại Hiệp là một nam một nữ luyện công không có một mảnh vải nào bên cạnh bụi hoa, không biết mới lạ!

Lục Quan Quan gật đầu, xem ra chàng biết nhiều về mẫu thân nàng hơn tưởng tượng. Nàng nói tiếp:

– “Trong thời gian ngắn muốn có thủ đoạn tự vệ, thì chỉ có ám khí, độc công, thân pháp. Những công pháp này đến từ một nữ ma đầu từng họa hại hàng ngàn tính mạng, vì vậy Long ca ca phải đáp ứng hai điều.”

Đưa ngón tay út nõn nà ra, nàng nói:

– “Một, không được dùng chúng hại người vô tội.”
– “Hai, không được tiết lộ ta và Trình tỷ, nếu không người trong giang hồ sẽ truy sát chúng ta vì để lộ môn võ công hiểm độc này!”

Nhất Long cũng đưa ngón tay út ra, ngoéo tay với nàng:

– “Được. Ta hứa với muội, tuyệt đối không tiết lộ ai dạy ta môn võ công này, và không dùng để hại người vô tội.”

Mỉm cười hài lòng, Lục Quan Quan nói:

– “Môn này là Ngũ Độc Thần Chưởng của nữ ma đầu Xích Luyện Tiên Tử Lý Mạc Sầu, được viết trong cuốn ‘Ngũ Độc Bí Truyền’ của phái Cổ Mộ, bên trong có ghi cách điều chế năm loại độc dược khác nhau, khi xuất chiêu chỉ cần bàn tay hơi chạm phải kẻ địch cũng đã chí mạng. Bên trong còn có cách chế tạo Băng Phách Ngân Châm và giải dược. Châm độc tới nỗi người thường chỉ cần lại gần cũng trúng độc chết.”

Rút ra một cây châm, nàng nói:

– “Còn đây là Ngọc Phong Châm của phái Cổ Mộ, độc tính ít hơn nhưng trúng phải sẽ ngứa ngáy toàn thân như ong đốt. Phải uống mật ong Ngọc Phong thì mới khỏi. Ta và Trình tỷ hay bọc sáp ngậm trong miệng để khi lâm vào khốn cảnh có biện pháp tự vệ.”

Nhìn Nhất Long đầy chờ mong, nàng cười:

– “Long ca ca vốn có trí tuệ thông thần, ta chỉ cần đọc một lượt cuốn Ngũ Độc Bí Truyền là huynh hiểu cách dùng độc công. Ngoài ra còn có thân pháp phái Cổ Mộ, chàng đợi ta đi bắt chim sẻ.”

Nói xong bèn đi mượn một gian lều trống, rồi dẫn Nhất đi bắt chim sẻ trong rừng. Bắt được tám mươi mốt con chim sẻ bỏ vào túi, nàng mang về thả trong lều. Đoạn nói:

– “Long ca ca xem đây.”

Hai cánh tay nàng bay lượn, vẫy nhanh, phẩy liên tục, từng con chim sẻ bay toán loạn dần quay trở lại tụ trước mặt nàng trong phạm vi một mét, không đi đâu được. Hai bàn tay nhanh thoăn thoắt, chồng chất bóng ảnh hoa cả mắt, như hóa thành cả ngàn bàn tay, tụ tập toàn bộ lũ chim sẻ vào trước mặt nàng.

Hồi lâu, nàng vung hai cánh tay, luồng gió mạnh thổi lũ chim sẻ bay tản ra thành hình xoáy ốc trong lều, nói:

– “Đây là chưởng pháp nhập môn phái Cổ Mộ, tên là ‘Thiên La Địa Võng Thế’, có tám mươi mốt chiêu, Long ca ca đã nhớ hết chưa?”

Nhất Long vung tay áo lên, mô phỏng y hệt động tác Lục Quan Quan vừa làm, tám mươi mốt chiêu chưởng pháp xuất ra liên miên bất tuyệt không khác gì bản gốc, có điều vị trí chim sẻ không như lúc đầu, công lực không đủ, chỉ tụ được ba mươi con vào trước mặt.

Lục Quan Quan khen “hảo” một tiếng, nói:

– “Trí nhớ huynh thật thần diệu, thi triển chẳng khác một li một hào so với ta. Chỉ tiếc Long ca ca chưa tu luyện nội công mà thôi. Ta vốn muốn dạy chàng nội công bản phái, nhưng đạo luyện công của phái Cổ Mộ nghịch thiên di hành, khí huyết đảo ngược, khi ngủ thì công phu sẽ hao tổn hết chín phần. Hơn nữa tâm hỏa cực thịnh, toàn thân phát nhiệt, phải tìm cách hạ nhiệt, nếu để khí nóng gặp quần áo chạy ngược vào sẽ trọng thương hoặc chết ngay tức thì.”

Nàng lấy giấy mực và bút ra, hỏi:

– “Huynh có thể vẽ hình người trưởng thành lên đây không? Ta cần đánh dấu các huyệt đạo.”

Nhất Long hiểu ý, nhưng phải đợi một lúc cho hai tay hết mỏi rồi mới cầm bút, loáng một cái là vẽ xong, dựa trên hình dáng của Hà Bổng. Lục Quan Quan cầm lấy bút, chấm những điểm trên hình người, tiêu chú các huyệt đạo, kinh mạch và công dụng của chúng khi điểm phải. Những nơi không thể vẽ như sườn, bàn chân, khớp xương thì nàng dùng bút chấm vào người Nhất Long.

Chỉ một thoáng mà chàng đã học xong, Lục Quan Quan mỉm cười, trò giỏi thì sư phụ đỡ nhọc công. Nàng dạy cho chàng các loại ám khí, thủ pháp thu phóng, rồi nói:

– “Bây giờ chỉ còn quyền pháp, binh khí nữa thôi. Chúng ta nghỉ dùng cơm đã.”

Hai người trở về trại. Nhà bếp phát cho mấy ống cơm lam, Lục Quan Quan lấy làm kỳ lạ lắm, ăn thử rồi khen món nhân lạc thơm vô cùng.

Hai người đi bộ ra một gốc cây bên mỏm đá, phóng mắt ra nhìn núi rừng bao la thấy thiên nhiên đẹp đẽ vô ngần, tâm thần thư thái không ít.

Nhất Long chợt nói:

– “Quan Quan, ta xin lỗi.”

Lục Quan Quan hỏi:

– “Là việc Trình tỷ ở tẩm cung phải không?”

Quan sát vẻ mặt hơi ngạc nhiên của Nhất Long, nàng nói:

– “Trước lúc cứu ta, huynh đã gặp được biểu tỷ Trình Tiêu, nhưng lực bất tòng tâm. Sau khi gặp ta, huynh có tới đó dò xét hai lần, chắc là để tìm Trình tỷ nhưng không gặp người. Vì mật đạo bị phát hiện nên phải đào thoát, sau đó ăn năn tự trách nên muốn học võ công, có đúng không?”

Nhất Long nở nụ cười khổ, đành gật đầu. Lục Quan Quan nói:

– “Để tránh ta đau lòng nhớ đến biểu tỷ, huynh xóa bớt tỷ ấy ra khỏi tranh vẽ, có điều trí nhớ quá chân thực, nên chỗ ấy trống trơn không có gì cả. Huynh còn có điều không biết, trong cung khi thị tẩm thì cô gái sẽ quấn tấm chăn thêu chỉ lụa vàng, chính là thứ trong tranh.”

Nàng cười nhẹ nhàng:

– “Huynh đúng là một con người hiền lành, nhân hậu, lúc nào cũng lo lắng cho người khác. Huynh nhận biết mẫu nhân và di mẫu muội đúng không?”

Nhất Long nói:

– “Trí nhớ của ta chưa hồi phục hoàn toàn, không nắm rõ mọi chi tiết. Có điều ta biết quái nhân họ Dương đó là ai.”

Đôi mắt Lục Quan Quan chợt ánh lên nét kinh ngạc, nàng tung người nhảy lên cây, thả một dải lụa cuốn lấy eo Nhất Long, kéo chàng lên cành cây rồi dịu dàng nói:

– “Mời chàng.”

Chương trước Chương tiếp
Loading...